Navigator Business & Entrepreneurs
FeaturedHighlightInvesting

Doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng cho cơ chế CBAM

Chính phủ đang tích cực tham gia các diễn đàn đa phương để tìm kiếm các cam kết và quy định linh hoạt hơn nhằm hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp Việt Nam.

Các quan chức và chuyên gia Việt Nam đã nhấn mạnh nhu cầu phải chuẩn bị cho việc thực thi Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon ( CBAM ) của Liên minh châu Âu (EU), công cụ của khối này nhằm định giá công bằng cho lượng cacbon phát thải trong quá trình sản xuất hàng hóa có hàm lượng các-bon cao, có hiệu lực vào tháng 10 năm 2023.

Các yêu cầu này áp dụng cho sáu mẫu nhập khẩu vào EU, cụ thể là xi măng, điện, phân bón, sắt thép, nhôm và hydro. Đơn đăng ký đầy đủ sẽ áp dụng cho các sản phẩm nhập khẩu vào khối từ ngày 1 tháng 1 năm 2026.

Mặc dù việc triển khai chính thức CBAM đang đến gần, nhưng vẫn chưa có đánh giá tác động toàn diện hoặc hướng dẫn chính thức thống nhất cho doanh nghiệp.

Gần đây, nhiều nguồn và tổ chức đã hướng dẫn các công ty về CBAM. Tuy nhiên, các nguồn không chính thức và không chính xác đã khiến các doanh nghiệp hiểu sai về CBAM, dẫn đến việc điều chỉnh không phù hợp trong hoạt động sản xuất và lãng phí tài nguyên.

Thép là một trong sáu mặt hàng chủ lực chịu thuế carbon khi nhập khẩu vào châu Âu. Ảnh: Văn Nghị

Ngày 24/8, Văn phòng Chính phủ đã công bố các nhiệm vụ liên quan đến CBAM. Bộ Công Thương được chỉ định là cơ quan chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành khác xây dựng và triển khai các biện pháp ứng phó hiệu quả với CBAM, trong đó có việc xây dựng kế hoạch quốc gia ứng phó với CBAM, đảm bảo Việt Nam có thể tối đa hóa lợi ích từ EVFTA và tiếp cận thị trường EU.

Tại hội thảo do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 16/9, đại diện chính phủ, chuyên gia và hiệp hội doanh nghiệp đã thảo luận về tác động của CBAM và mức độ nhận thức hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam, cũng như công tác chuẩn bị của các ngành để ứng phó với CBAM.

Diễn giả gồm có ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương); ông Nguyễn Hồng Loan, chuyên gia Dự án Hỗ trợ kỹ thuật Đánh giá tác động CBAM; ông Hoàng Văn Tam, Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững (Bộ Công Thương); và ông Đinh Quốc Thái, Tổng thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA).

Theo bà Nguyễn Hồng Loan, khảo sát cho thấy nhận thức của doanh nghiệp về CBAM chưa được cải thiện đáng kể trong thời gian qua. Trong khi một số doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của CBAM đang nghiêm túc chuẩn bị thì phần lớn doanh nghiệp vẫn chưa hiểu đầy đủ về cơ chế này, dẫn đến việc chuẩn bị chưa hiệu quả.

Bà Loan giải thích: “Nhiều doanh nghiệp cho rằng CBAM chỉ áp dụng nếu lượng khí thải xuất khẩu của họ vượt quá ngưỡng phát thải do Châu Âu đặt ra, nhưng trên thực tế, CBAM bao gồm lượng khí thải trong toàn bộ vòng đời sản phẩm”.

Mặt khác, một số công ty phản ứng thái quá, lo ngại rằng CBAM sẽ buộc họ phải trả mức giá carbon giống như ở châu Âu. Ngay cả các ngành chưa được CBAM bao phủ, chẳng hạn như gạo, cũng lo ngại.

Ông Ngô Chung Khánh cho biết, ngoài những nỗ lực trong nước nhằm nâng cao nhận thức và hỗ trợ doanh nghiệp, Bộ Công Thương cũng đang tham gia đàm phán đa phương để đảm bảo chính sách linh hoạt cho doanh nghiệp Việt Nam. Những lo ngại về thuế carbon đối với hàng xuất khẩu đã được nêu ra không chỉ trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà còn ở các diễn đàn đa phương khác, khi nhiều thành viên WTO, bao gồm các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nam Phi, Ấn Độ và Indonesia, chia sẻ mối quan tâm về CBAM.

Việt Nam đã ban hành hướng dẫn cho các doanh nghiệp về việc tiến hành kiểm kê, đo lường và báo cáo khí nhà kính, tạo nền tảng cho việc giảm phát thải và tuân thủ các quy định quốc tế.

Các diễn giả tại hội thảo tổ chức tại Hà Nội ngày 16/9 chia sẻ về CBAM và công tác chuẩn bị của doanh nghiệp Việt Nam. Ảnh: Tạp chí công thương

Trong khi đó, ông Hoàng Văn Tam nhấn mạnh, quy định về kiểm soát khí thải của Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, CBAM áp dụng các quy định và phương pháp tính toán rộng hơn, đòi hỏi các cơ quan chuyên môn phải phối hợp với EU để thống nhất về phương pháp luận.

Tuy nhiên, Đinh Quốc Thái, Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) nhấn mạnh rằng thép là một trong sáu ngành chịu tác động ban đầu của CBAM. EU, thị trường chính của thép Việt Nam, nằm trong ba thị trường xuất khẩu lớn nhất. Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) đã đưa thông tin cập nhật về CBAM vào các bản tin hàng tháng để thông báo cho các doanh nghiệp về những tác động trong tương lai đối với sản xuất và doanh thu xuất khẩu sang EU.

VSA cũng đã làm việc với các công ty để tối ưu hóa hiệu quả năng lượng, giảm phát thải carbon và chuyển đổi sang sản xuất thép xanh hơn. VSA đã gần hoàn thành dự thảo lộ trình hướng tới mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050, phù hợp với chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu của Việt Nam, để hướng dẫn các doanh nghiệp trong ngành về các chiến lược chuyển đổi xanh và sự sẵn sàng của CBAM.

Song, ông Thái nhấn mạnh, doanh nghiệp sẽ cần sự hỗ trợ ban đầu về tư vấn, công nghệ và tài chính từ các quỹ tín dụng xanh để thực hiện quá trình chuyển đổi. Hiệp hội cũng hy vọng các cơ quan chính phủ sẽ hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận các quỹ xanh này, cùng với các công nghệ phù hợp.

Ông nhấn mạnh nhu cầu hợp tác giữa các ngành công nghiệp và chính phủ để tạo ra chuỗi cung ứng cho sản xuất thép xanh. Điều này sẽ liên quan đến việc tiếp cận vật liệu và năng lượng xanh, cũng như tìm kiếm khách hàng sẵn sàng trả giá cao cho thép xanh vì chi phí sản xuất xanh có thể sẽ cao hơn.

Để thực hiện các chiến lược này, Bộ Công Thương đã đề xuất một số giải pháp, bao gồm thiết lập các quy định về giá carbon và tăng cường giáo dục công chúng để đảm bảo các doanh nghiệp hiểu đầy đủ về CBAM. Bộ cũng đề xuất tăng cường các hoạt động đào tạo trực tiếp để giúp các doanh nghiệp tuân thủ và chuẩn bị cho CBAM.

Về giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, ông Khánh nhấn mạnh ưu tiên là hỗ trợ cụ thể trong việc giảm phát thải carbon và tăng cường tiếp cận nguồn tài chính xanh, giúp doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh hơn, phát thải carbon thấp hơn.

Ngoài ra, Bộ Công Thương đang tăng cường hợp tác với EU thông qua việc yêu cầu công bố các tổ chức tư vấn được công nhận và đàm phán gia hạn thời gian chuyển đổi cho các ngành công nghiệp Việt Nam đến sau năm 2026.

Bộ cũng đang vận động tại các diễn đàn đa phương để có những cam kết và quy định linh hoạt nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam.

LP-Ttđtktbhn

Related posts

Link trực tiếp bóng đá Xoilacl.cc miễn phí

Xem tructiep https://socolivenn.cc/